Tờ trình số 150/TTR-CP về kết quả đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới và phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại thế giới do Chính phủ ban hành
Tờ trình số 150/TTR-CP về kết quả đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới và phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại thế giới do Chính phủ ban hành, 52845, Minh Nhật, Văn Bản Mua Bán Nhanh
, 15/11/2006 09:10:00Số hiệu: 150/TTR-CP | Ngày ban hành: 15 tháng 11 năm 2006 |
Loại văn bản: Văn bản WTO | Người ký: Nguyễn Tấn Dũng |
CHÍNH PHỦ | CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM |
Số: 150/TTr-CP | Hà Nội, ngày 15 tháng 11 năm 2006 |
TỜ TRÌNH
VỀ KẾT QUẢ ĐÀM PHÁN GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI VÀ PHÊ CHUẨN NGHỊ ĐỊNH THƯ GIA NHẬP HIỆP ĐỊNH THÀNH LẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI
Kính gửi: Chủ tịch nước
Sau gần 12 năm đàm phán, ngày 07 tháng 11 năm 2006 vừa qua, tại Phiên họp đặc biệt của Đại hội đồng Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), Việt Nam đã chính thức được kết nạp vào WTO.
Căn cứ Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế năm 2005, Chính phủ trình Chủ tịch nước kết quả đàm phán gia nhập WTO và kiến nghị phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập WTO như sau:
Phần 1
WTO VÀ TIẾN TRÌNH ĐÀM PHÁN GIA NHẬP WTO CỦA VIỆT NAM
I. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ WTO
WTO là tổ chức thương mại quy mô toàn cầu, hiện có 149 Thành viên, được thành lập vào ngày 01 tháng 01 năm 1995. Tiền thân của tổ chức này là Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), được 23 quốc gia ký kết vào năm 1947 nhằm tăng cường giao lưu thương mại giữa các quốc gia thông qua việc cắt giảm các hàng rào bảo hộ ở mỗi nước thành viên.
Trong lịch sử gần 50 năm của mình, GATT đã tổ chức được 8 vòng đàm phán đa phương về thương mại. Vòng thứ 8, thường được gọi là Vòng đàm phán Uruguay, diễn ra từ năm 1986 đến năm 1994, đã hoàn tất quá trình cải tổ GATT để lập ra một định chế thương mại toàn cầu mới có tên là Tổ chức Thương mại thế giới, gọi tắt là WTO.
GATT chỉ là một hiệp định thương mại đa phương, không phải là một tổ chức. Trong khi đó, WTO là một tổ chức hoàn chỉnh, bao gồm các cơ quan có thẩm quyền như Hội nghị Bộ trưởng, Đại hội đồng, các Uỷ ban chức năng và Cơ quan giải quyết tranh chấp. Giúp việc cho các cơ quan này là Ban Thư ký với hơn 600 nhân viên, đứng đầu là Tổng thư ký. Trụ sở WTO đặt tại Giơ-ne-vơ, Thụy Sỹ. Các Thành viên tham gia vào hoạt động của WTO thông qua phái đoàn đại diện. Các quyết định quan trọng nhất của WTO được thông qua tại Hội nghị Bộ trưởng (họp ít nhất 2 năm một lần) hoặc tại các cuộc họp của Đại hội đồng (cấp đại sứ, họp thường xuyên tại Giơ-ne-vơ). Mỗi thành viên có một phiếu biểu quyết, không phụ thuộc vào tiềm lực kinh tế hay mức niên liễm đóng góp.
WTO có những chức năng cơ bản sau đây:
- Quản lý, giám sát và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi các hiệp định của WTO. Trước khi WTO được thành lập, chỉ tồn tại duy nhất một hiệp định đa phương là GATT và hiệp định này chỉ điều chỉnh thương mại hàng hoá. WTO, ngược lại, có cả một hệ thống hiệp định đa phương (bắt buộc) và hiệp định nhiều bên (không bắt buộc) với phạm vi điều chỉnh được mở rộng sang cả các lĩnh vực khác như thương mại dịch vụ, các biện pháp về đầu tư liên quan đến thương mại và các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ.
- Thúc đẩy tự do hoá thương mại thông qua các cuộc đàm phán đa phương về tự do hoá thương mại. Năm 2001, vòng đàm phán đầu tiên của WTO được phát động với tên gọi là Nghị trình Phát triển Đô-ha, hay Vòng Đô-ha. Vòng đàm phán này cho tới nay vẫn chưa kết thúc.
- Giải quyết tranh chấp thương mại giữa các Thành viên theo các quy tắc, trình tự, thủ tục do WTO quy định. Đây là bước phát triển mới so với GATT, có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc bảo đảm tuân thủ các luật lệ của WTO cũng như sự bình đẳng giữa các thành viên.
- Cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các nước đang phát triển thông qua các chương trình tư vấn, đào tạo nguồn nhân lực; hợp tác với các tổ chức quốc tế khác.
Các nguyên tắc cơ bản của WTO là:
- Không phân biệt đối xử: là nguyên tắc quan trọng nhất của WTO, thể hiện qua hai chế độ là đối xử tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT). Đối xử MFN quy định một thành viên phải đối xử bình đẳng với tất cả các thành viên khác. Đối xử NT quy định phải dành cho hàng hoá, dịch vụ và doanh nghiệp nước ngoài sự đối xử bình đẳng như dành cho hàng hoá, dịch vụ và doanh nghiệp trong nước. WTO cho phép có ngoại lệ về đối xử MFN và NT nhưng phải theo đúng quy định của WTO.
- Thúc đẩy thương mại quốc tế đối với hàng hoá và dịch vụ thông qua đàm phán dỡ bỏ rào cản giữa các quốc gia: bao gồm cắt giảm thuế nhập khẩu, loại bỏ các biện pháp phi thuế, xử lý các hành vi gây lệch lạc thương mại như trợ cấp, phá giá .v.v..
- Minh bạch hoá: bao gồm minh bạch về chính sách và minh bạch về tiếp cận thị trường. Minh bạch về chính sách yêu cầu mọi quy định có liên quan đến thương mại của một thành viên phải được công bố công khai, dễ tiếp cận, phù hợp với luật lệ của WTO và áp dụng thống nhất trên toàn lãnh thổ. Đồng thời, phải dành cơ hội thoả đáng cho các bên có liên quan được góp ý trong quá trình lập quy. Minh bạch về tiếp cận thị trường yêu cầu các Thành viên nỗ lực ràng buộc mức trần cho thuế nhập khẩu và đưa ra các cam kết rõ ràng về mở cửa thị trường dịch vụ, giúp cho các doanh nghiệp có thể dự báo và hoạch định chiến lược kinh doanh.
Hệ thống văn kiện pháp lý của WTO bao gồm:
1. Hiệp định thành lập WTO, thường gọi tắt là Hiệp định WTO;
2. Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT), chuyên điều chỉnh thương mại hàng hoá;
3. Các hiệp định phụ trợ cho GATT (như Hiệp định Nông nghiệp, Hiệp định về hàng rào kỹ thuật đối với thương mại, Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại, Hiệp định về xác định trị giá hải quan v..v.);
4. Hiệp định chung về thương mại dịch vụ (GATS), chuyên điều chỉnh thương mại dịch vụ;
5. Hiệp định về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs);
6. Thoả thuận về quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp;
7. Cơ chế rà soát chính sách thương mại;
8. Các hiệp định thương mại nhiều bên (Hiệp định về mua bán máy bay dân dụng, Hiệp định về mua sắm chính phủ).
Các văn kiện từ 1 đến 7 được gọi là các văn kiện đa phương, mang tính bắt buộc, các thành viên phải cam kết tuân thủ theo nguyên tắc “chấp nhận cả gói”. Với các hiệp định nhiều bên không mang tính bắt buộc, các thành viên được khuyến khích tham gia trên cơ sở tự nguyện. Tuy nhiên, các thành viên mới gia nhập từ năm 1995 đều phải tham gia các hiệp định này, chí ít là cũng phải đàm phán và đưa ra cam kết nào đó.
II. ĐÀM PHÁN GIA NHẬP WTO
Để gia nhập nhiều tổ chức quốc tế, bên xin gia nhập chỉ cần chấp nhận Hiến chương, Điều lệ hay các văn kiện pháp lý của tổ chức đó là đủ. WTO không làm theo cách này mà yêu cầu các nước và vùng lãnh thổ xin gia nhập phải đàm phán với mọi thành viên có quan tâm. Trong thời gian qua, cùng đàm phán gia nhập như Việt Nam còn có khoảng 30 nước nữa, một nửa trong số đó là các nền kinh tế chuyển đổi.
Đàm phán gia nhập WTO bao gồm 4 giai đoạn:
1. Giai đoạn làm rõ chính sách: kèm theo đơn xin gia nhập, nước xin gia nhập phải đệ trình Bị vong lục mô tả hiện trạng chính sách thương mại. Một Ban công tác sẽ được thành lập, bao gồm các thành viên quan tâm đàm phán với nước xin gia nhập. Nước xin gia nhập có nghĩa vụ trả lời bằng văn bản các câu hỏi của các thành viên Ban công tác để làm rõ chính sách kinh tế - thương mại. Các câu hỏi và trả lời này sẽ là dữ liệu để Ban thư ký tổng hợp xây dựng Báo cáo của Ban công tác sau này.
2. Giai đoạn đàm phán: Đàm phán thực chất chỉ bắt đầu sau khi đã có bước tiến đáng kể trong việc làm rõ chính sách, bao gồm đàm phán đa phương và đàm phán song phương. Đàm phán đa phương là đàm phán với cả Ban công tác về việc tuân thủ các hiệp định đa phương của WTO, theo đó, nước xin gia nhập phải đưa ra các cam kết về việc thực thi các hiệp định, lộ trình điều chỉnh pháp luật và hình thành các cơ chế, định chế cần thiết cho việc thực thi cam kết. Đàm phán song phương là đàm phán về mở cửa thị trường hàng hoá và dịch vụ với từng thành viên quan tâm, nhằm giải quyết các quyền lợi thương mại riêng. Khi kết thúc đàm phán song phương, các thoả thuận riêng sẽ được tổng hợp lại theo nguyên tắc “chỉ lấy cam kết tốt nhất” và mọi thành viên WTO đều được hưởng các cam kết “tốt nhất” này theo nguyên tắc MFN.
3. Giai đoạn hoàn tất văn kiện gia nhập: Trên cơ sở kết quả đàm phán đa phương và song phương, Ban công tác sẽ tổng hợp và hoàn tất bộ văn kiện gia nhập, bao gồm các tài liệu chính (i) Báo cáo của Ban công tác; (ii) Biểu cam kết về mở cửa thị trường hàng hoá; (iii) Biểu cam kết về mở cửa thị trường dịch vụ; và (iv) dự thảo Nghị định thư gia nhập. Sau khi thông qua các văn kiện này, Ban công tác hoàn thành nhiệm vụ của mình.
4. Giai đoạn phê chuẩn: bộ văn kiện gia nhập sẽ được trình lên Hội nghị Bộ trưởng hoặc Đại hội đồng thông qua. Theo quy định của Hiệp định WTO, Hội nghị Bộ trưởng và Đại hội đồng sẽ thông qua văn kiện gia nhập khi có ít nhất là 2/3 số thành viên tán thành. Tuy nhiên, trên thực tế, các nước chỉ có thể gia nhập khi không có bất cứ thành viên nào phản đối. Sau khi bộ văn kiện được thông qua, nước xin gia nhập sẽ tiến hành thủ tục phê chuẩn trong nước. 30 ngày sau khi Ban Thư ký WTO nhận được thông báo của nước xin gia nhập về việc đã hoàn tất thủ tục phê chuẩn, nước đó mới chính thức trở thành thành viên của WTO[1].
Phương thức “gia nhập bằng đàm phán” đặt nước xin gia nhập vào thế bất lợi bởi vì:
- Đàm phán gia nhập là đàm phán một chiều. Mọi thành viên đều có quyền đòi hỏi trong khi nước xin gia nhập không có quyền đó, chỉ hoặc là chấp nhận, hoặc là kiên trì thuyết phục các thành viên giảm bớt yêu cầu. Kiểu đàm phán này dẫn đến 2 hệ quả. Một là, quá trình đàm phán thường bị kéo dài. Hai là, nước xin gia nhập nhiều khi phải chấp nhận những yêu cầu vượt ra ngoài chuẩn mực của WTO, thường được gọi là yêu cầu (hoặc cam kết) WTO cộng. Tổng hoà các cam kết WTO cộng đã tạo ra một kiểu phân biệt đối xử ngay trong lòng WTO mà nhiều người gọi là “hệ thống tiêu chuẩn kép”.
- Đàm phán một chiều còn làm nảy sinh xu thế ép nước gia nhập sau phải cam kết ít nhất là bằng, trong nhiều trường hợp là sâu và rộng hơn nước gia nhập trước. Tiêu chuẩn gia nhập, vì vậy, được nâng dần.
- Trong một số trường hợp, đàm phán có thể bị ảnh hưởng bởi các toan tính chính trị hoặc phi thương mại khác khiến nước xin gia nhập rất khó định hướng hoặc xử lý.
Đàm phán gia nhập và các hệ quả của nó, như đã trình bày trên, là một thực tế mà mọi nước xin gia nhập đều phải chấp nhận, kể cả những quốc gia được coi là chậm phát triển, lẽ ra phải được hưởng sự đối xử đặc biệt và khác biệt theo quy định của WTO.
Đàm phán gia nhập của Việt Nam, bên cạnh những khó khăn và bất lợi chung như đã trình bày trên, còn chịu ảnh hưởng của một số yếu tố bất lợi khác sau đây:
- Ta đàm phán khi đã có Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ (BTA). Trong BTA, ta đã có những cam kết có ý nghĩa về mở cửa thị trường, đặc biệt là dịch vụ. Theo nguyên tắc MFN, khi ta vào WTO, mọi thành viên WTO sẽ được hưởng các cam kết trong BTA. Vì lý do đó, trong đàm phán song phương, các thành viên đều yêu cầu ta phải lấy BTA làm khởi điểm để đàm phán. Trên thực tế, ta chỉ có thể gia nhập WTO khi chấp nhận cam kết ở mức BTA cộng, không thể bằng BTA và càng không thể thấp hơn BTA.
- Ta đàm phán vào thời điểm đang diễn ra Vòng Đô-ha. Các ý tưởng mới về tự do hoá thương mại, các yêu cầu sâu hơn về mở cửa thị trường, vì vậy, đều được đặt lên bàn đàm phán. Trong khi đó, thế “mặc cả” của ta lại yếu hơn một số nước khác bởi thị trường của ta tuy có tiềm năng nhưng trên thực tế vẫn còn khá nhỏ. Một nhượng bộ nào đó đối với ta có thể là rất lớn nhưng với đối tác có thể là chưa đủ.
- Các cam kết WTO cộng có thể đã làm một số thành viên gia nhập trước ta gặp khó khăn trong việc thực thi cam kết. Xuất phát từ đây, để “chắc ăn”, một số thành viên không chỉ yêu cầu ta đưa ra cam kết mà còn muốn thấy cam kết đó đã được thực thi trên thực tế, từ trước ngày ta vào WTO.
Với toàn bộ những yếu tố bất lợi trên, ta đã phải rất cố gắng mới tiệm cận được sự cân đối giữa yêu cầu của các đối tác và khả năng mở cửa thị trường thực tế của ta.
III. MỐI LIÊN HỆ GIỮA WTO VỚI TIẾN TRÌNH ĐỔI MỚI VÀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM
Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ "Mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế". Đại hội lần thứ IX và lần thứ X khẳng định chủ trương "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững".
Thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, trong những năm đổi mới vừa qua, nước ta đã đẩy mạnh quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Theo đó, đã mở rộng mạnh mẽ quan hệ kinh tế song phương và đa phương; phát triển quan hệ đầu tư với nhiều nước và vùng lãnh thổ; bình thường hóa quan hệ với các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB); gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc, Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Hàn Quốc và đang cùng ASEAN đàm phán khu vực mậu dịch tự do với một số quốc gia khác như Úc, Niu Dilân, Ấn Độ, Liên minh châu Âu, v..v; tham gia sáng lập diễn đàn Á - Âu (ASEM); gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Nước ta cũng đã ký Hiệp định khung về hợp tác kinh tế và Hiệp định về mở cửa thị trường với Liên minh châu Âu (EU) và Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ (BTA) theo chuẩn mực của WTO.
Thực tiễn những năm qua chỉ rõ: trên cơ sở những thành tựu của công cuộc đổi mới kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc mở cửa thị trường và hội nhập khu vực đã mang lại những kết quả rất đáng khích lệ. Kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh, kinh tế tăng trưởng với tốc độ cao, năng lực cạnh tranh của sản phẩm và doanh nghiệp nước ta được cải thiện đáng kể. Có thể nói tiến trình hợp tác song phương và hội nhập khu vực như trên là bước chuẩn bị quan trọng để nền kinh tế nước ta có thể hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới đang được toàn cầu hóa một cách sâu sắc. Vì vậy, việc nộp đơn và sau đó là đàm phán để gia nhập WTO là bước đi tiếp theo khách quan của cả tiến trình đổi mới và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. WTO chỉ là một trong những điểm đến của quá trình đổi mới lâu dài, liên tục, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Ta chủ động gia nhập WTO vì nhận thấy các quy định cơ bản của tổ chức này là cùng chiều với công cuộc đổi mới của ta và việc gia nhập WTO có thể giúp ta phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững hơn.
IV. SỰ CẦN THIẾT, CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC CỦA VIỆC GIA NHẬP WTO
Gia nhập WTO là tham gia sâu hơn vào tiến trình toàn cầu hoá kinh tế. Tiến trình này có những mặt thuận. Nó giúp các nước tận dụng được lợi thế so sánh của mình. Tăng trưởng kinh tế, vì vậy, trở nên ổn định và bền vững hơn. Sức cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ và phúc lợi chung của toàn xã hội được nâng cao nhờ nguồn lực được phân bổ một cách có hiệu quả hơn. Quá trình này cũng tạo ra cơ hội rất lớn cho các nước đang phát triển đẩy mạnh công nghiệp hoá và tham gia có hiệu quả hơn vào phân công lao động quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh mặt thuận, toàn cầu hoá kinh tế cũng có những mặt nghịch. Trước hết, toàn cầu hoá có khả năng dẫn tới sự lệ thuộc ngày càng tăng của các nước, đặc biệt là các nước đang phát triển, vào các thành tố có độ ổn định kém của kinh tế toàn cầu như luồng vốn đầu tư và thị trường tài chính. Bên cạnh đó, toàn cầu hoá tuy có khả năng làm tổng sản phẩm xã hội tăng lên nhưng cũng tiềm ẩn khả năng làm gia tăng hơn nữa khoảng cách phát triển giữa nước giàu với nước nghèo cũng như giữa các vùng và các tầng lớp xã hội trong phạm vi quốc gia. Cuối cùng, tự do hoá thương mại, nội dung đầu tiên và cốt lõi của toàn cầu hoá kinh tế, thường có ảnh hưởng tiêu cực tới một bộ phận của sản xuất trong nước, gây ra những vấn đề kinh tế và xã hội phức tạp.
Vì những mặt thuận, thế giới có GATT, WTO và Nghị trình Phát triển Đô-ha. Vì những mặt nghịch, thế giới có biểu tình chống toàn cầu hoá, có thất bại của hội nghị Xi-át-tơn và hội nghị Can-cun. Tuy nhiên, bất chấp các dích dắc, tiến trình toàn cầu hoá kinh tế vẫn tiến về phía trước theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu bởi lợi ích của toàn cầu hoá kinh tế là rất khó phủ nhận.
Chúng ta nhận thức được thực tiễn đó khi làm đơn và sau đó là đàm phán để gia nhập WTO.
Nhờ thực hiện đường lối đổi mới và từng bước chủ động hội nhập vào kinh tế khu vực và kinh tế thế giới, nền kinh tế nước ta có những thay đổi rất tích cực. Đã hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; tốc độ tăng trưởng kinh tế luôn đạt mức cao; chất lượng tăng trưởng được cải thiện, năng lực cạnh tranh được nâng cao một bước; cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực; thị trường xuất khẩu được mở rộng, kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng liên tục và đạt xấp xỉ 40 tỷ USD trong năm 2006; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đạt trên 55 tỷ USD và tăng cao trong năm 2006. Việc làm được tạo ra ngày càng nhiều, công cuộc xóa đói giảm nghèo thu được những thành tựu quan trọng.
Gia nhập WTO, ta sẽ có cơ hội lớn để duy trì và nâng cao các thành tựu đó bởi vì:
- Gia nhập WTO sẽ là một tín hiệu rất mạnh về quyết tâm đổi mới của ta, qua đó góp phần thúc đẩy đầu tư trong nước và thu hút đầu tư nước ngoài, tạo thêm năng lực sản xuất mới và đi đôi với đó là năng lực xuất khẩu mới. Đây là cơ hội có ý nghĩa nhất khi ta là thành viên WTO và là yếu tố thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động, thúc đẩy tập trung kinh tế với tốc độ cao (tính đến năm 2006, đầu tư nước ngoài chiếm đến 37% giá trị sản lượng công nghiệp, trên 55% tổng kim ngạch xuất khẩu và 15,5% GDP, thu hút 1 triệu lao động làm việc trực tiếp). Ngoài ra, gia nhập WTO và việc thực hiện yêu cầu minh bạch hóa, công khai hóa trong việc tiếp cận mọi cơ chế quản lý và chính sách quản lý cũng là điều kiện tạo ra môi trường công khai, bình đẳng, là tiền đề của của chống tham nhũng và là điều kiện để phát huy vai trò giám sát của nhân dân.
- Gia nhập WTO, hàng hoá và dịch vụ của ta sẽ được hưởng sự đối xử bình đẳng khi tiếp cận thị trường của tất cả các thành viên WTO, chí ít là cũng bình đẳng theo các chuẩn mực của WTO. Hạn ngạch dệt may sẽ được xoá bỏ, ngành dệt may sẽ có cơ hội để phát triển. Với một số mặt hàng khác mà các thành viên WTO đang duy trì hạn ngạch thuế quan, ta sẽ có cơ hội tham gia vào quá trình phân bổ hạn ngạch khi trở thành thành viên của tổ chức này.
- Gia nhập WTO, ta sẽ có cơ hội sử dụng cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO để đấu tranh bình đẳng với các đối tác thương mại lớn, hạn chế được việc sử dụng các biện pháp phân biệt đối xử, trái quy định của WTO đối với hàng hoá và dịch vụ xuất khẩu của ta.
- Cuối cùng, gia nhập WTO, ta sẽ có cơ hội nâng cao vai trò và vị thế của mình trên trường quốc tế, tham gia bình đẳng vào việc hoạch định các định chế thương mại toàn cầu và nâng dần khả năng bảo vệ quyền lợi thương mại của ta, tạo điều kiện cho ta triển khai có hiệu quả đường lối đối ngoại theo nguyên tắc “Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế vì hòa bình, hợp tác và phát triển”.
Tuy nhiên, bên cạnh cơ hội, việc gia nhập WTO cũng đặt ra một số thách thức to lớn. Đó là:
- Môi trường kinh doanh sẽ trở nên cạnh tranh hơn, gây sức ép không nhỏ đối với nhiều doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp đã quen với sự trợ giúp của Nhà nước.
- Sức ép về chuyển dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực có thể sẽ lớn hơn và gấp gáp hơn. Quá trình này tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó có cả những rủi ro về mặt xã hội. Thách thức ở đây là đề ra được những chính sách đúng đắn nhằm tăng cường tính năng động và khả năng thích ứng nhanh của toàn bộ nền kinh tế, củng cố và tăng cường các giải pháp an sinh xã hội để khắc phục những khó khăn ngắn hạn, tạo dựng được môi trường để quá trình chuyển dịch cơ cấu và bố trí lại nguồn lực diễn ra hợp lý hơn, với chi phí thấp hơn và do đó, hiệu quả hơn.
- Các quy định toàn diện của WTO sẽ đặt ra những yêu cầu hết sức cấp bách cho việc bổ sung và hoàn thiện thể chế. Trước hết là phải liên tục hoàn thiện các quy định về cạnh tranh để bảo đảm một môi trường cạnh tranh lành mạnh và công bằng. Sau đó, phải liên tục hoàn thiện môi trường kinh doanh để phát huy mọi nguồn lực trong nước, thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy tính năng động và khả năng thích ứng nhanh, những yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của hội nhập kinh tế quốc tế.
- Yêu cầu cao về minh bạch hoá và công khai hoá của WTO sẽ đặt ra thách thức lớn cho nền hành chính quốc gia. Nền hành chính quốc gia sẽ phải thay đổi theo hướng công khai hơn, minh bạch hơn và hiệu quả hơn. Đó phải là một nền hành chính vì quyền lợi chính đáng của mọi công dân và doanh nghiệp, lấy công dân và doanh nghiệp làm trọng tâm phục vụ, khắc phục toàn bộ các biểu hiện trì trệ, thờ ơ và vô trách nhiệm. Nếu không tạo ra được một nền hành chính như vậy, sẽ không thể tận dụng được các cơ hội do hội nhập kinh tế nói chung và việc gia nhập WTO nói riêng đem lại.
- Để tận dụng được các cơ hội do việc gia nhập WTO đem lại, bên cạnh quyết tâm về mặt chủ trương, cần phải có một đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước từ trung ương đến địa phương, cơ sở và một đội ngũ doanh nhân đủ mạnh. Đội ngũ những người hoạt động trên lĩnh vực đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế phải được tăng cường. Đây cũng là một thách thức to lớn đối với ta do phần đông cán bộ của ta còn bị hạn chế về kinh nghiệm điều hành một nền kinh tế mở, có sự tham gia của yếu tố nước ngoài. Nếu không có sự chuẩn bị phù hợp, thách thức này sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục.
Tóm lại, gia nhập WTO và hội nhập sâu hơn vào kinh tế toàn cầu sẽ đem lại cả cơ hội lẫn thách thức nhưng để mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng XHCN, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ nêu ra trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010, trên tinh thần chủ động nắm bắt cơ hội và vượt qua thách thức, ta đã quyết định đàm phán để gia nhập WTO.
V. CÁC NGUYÊN TẮC CHỈ ĐẠO ĐÀM PHÁN
Nhận thức được cơ hội và thách thức của việc gia nhập WTO cũng như thuận lợi và khó khăn của quá trình đàm phán, ngay từ những ngày đầu bước vào đàm phán thực chất, Chính phủ đã chỉ đạo Đoàn đàm phán quán triệt những phương châm sau đây:
1. Thực hiện nhất quán chủ trương "chủ động hội nhập kinh tế quốc tế theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa".
2. Chấp thuận các quy định chung đối với các thành viên WTO song cần tranh thủ những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển có trình độ thấp và đang chuyển đổi sang cơ chế thị trường ở mức tối đa về mức độ cam kết cũng như thời hạn thực hiện. Đồng thời, cố gắng tận dụng vị thế mới của nước ta trên trường quốc tế có được nhờ thắng lợi của sự nghiệp đổi mới.
3. Tranh thủ thời gian sớm gia nhập WTO vì lợi ích của ta song với những bước đi vững chắc, gắn kết quá trình đàm phán với sự chuẩn bị ở trong nước về luật pháp, cơ chế chính sách và nhất là sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước và nâng cao khả năng cạnh tranh. Tránh đột biến về thu ngân sách; cố gắng duy trì mức độ bảo hộ thích hợp, với thời hạn hợp lý đối với một số ngành hàng hết sức cần thiết, có ý nghĩa chiến lược và nhạy cảm về mặt xã hội.
4. Thực hiện nhất quán chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa; kết hợp hài hòa các nghĩa vụ và quyền lợi của ta trong tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế.
Những nguyên tắc này là cơ sở để hình thành phương pháp đàm phán vững chắc. Trên bàn đàm phán, ta thực hiện phương châm kiên trì, kiên quyết nhưng cũng rất thực tế và linh hoạt. Nhờ vậy, trong thời gian chưa tới 3 năm kể từ khi bước vào đàm phán thực chất, ta đã kết thúc được toàn diện đàm phán với kết quả, theo đánh giá của Chính phủ, là tương đối phù hợp với trình độ phát triển của ta.
VI. TÓM TẮT TIẾN TRÌNH ĐÀM PHÁN CỦA VIỆT NAM
Tháng 7 năm 1994, Việt Nam được công nhận là quan sát viên của GATT. Trong ngày làm việc đầu tiên của mình, 04 tháng 01 năm 1995, WTO tiếp nhận đơn xin gia nhập của Việt Nam. Ngày 31 tháng 01 năm 1995, Ban Công tác về việc Việt Nam gia nhập WTO được thành lập.
Thời gian đầu, đàm phán tiến triển rất khó khăn vì mức độ “mở” của nền kinh tế còn thấp, bảo hộ còn cao, cơ chế quản lý còn chịu nhiều ảnh hưởng của thời bao cấp, phức tạp, cồng kềnh, nhiều chỗ không tương thích với chuẩn mực của WTO. Quá trình minh bạch hoá chính sách, vì vậy, bị kéo dài; đàm phán song phương chậm đi vào thực chất. Bên cạnh đó, ta còn có khó khăn về nguồn lực, thiếu chuyên gia về đàm phán thương mại trong khi các vấn đề WTO lại là những vấn đề mới, phức tạp. Đàm phán chỉ thực sự được đẩy mạnh trong 3 năm cuối, khi ta đã có sự chuyển biến mạnh về nhận thức của xã hội đối với hội nhập kinh tế quốc tế căn cứ trên các thành tựu phát triển kinh tế-xã hội, khi đội ngũ đàm phán dần được kiện toàn, năng lực xây dựng pháp luật được nâng cao.
1. Đàm phán đa phương:
Phiên họp đầu tiên của Ban công tác được tổ chức vào tháng 7/1998. Tới Phiên 7 (tháng 12/2003), Ban công tác ghi nhận Việt Nam đã hoàn thành cơ bản quá trình minh bạch hoá và thống nhất giao Ban Thư ký dự thảo tài liệu Những yếu tố cơ bản của Báo cáo của Ban công tác. Phiên 9 (tháng 12 năm 2004) đánh dấu một mốc quan trọng trong tiến trình đàm phán đa phương. Tại phiên này, ta chính thức cam kết sẽ tuân thủ về cơ bản toàn bộ các hiệp định của WTO ngay từ thời điểm gia nhập và đồng ý đẩy nhanh tiến độ xây dựng pháp luật để thực thi các cam kết. Trên cơ sở đó, Ban công tác bắt đầu xem xét Dự thảo ban đầu của Báo cáo gia nhập.
Trong 2 năm 2005 và 2006, trên cơ sở các cam kết mang tính xây dựng của ta và được sự hỗ trợ của kết quả đàm phán song phương, Ban công tác đã tiến hành thêm 4 phiên họp chính thức và một số phiên không chính thức để hoàn tất Báo cáo gia nhập. Tới Phiên 13 (9 - 13 tháng 10 năm 2006), ta và các đối tác thoả thuận được các chi tiết cuối cùng của bản Báo cáo. Tại Phiên 14 (26 tháng 10 năm 2006), phiên cuối cùng, Ban công tác đã thông qua toàn bộ các văn kiện gia nhập của Việt Nam để trình lên Đại hội đồng WTO xem xét.
Trong quá trình đàm phán đa phương, ta đã phải trả lời 3516 câu hỏi của các đối tác. Hàng nghìn trang tài liệu đã được đệ trình lên Ban công tác để làm rõ về chính sách thương mại của Việt Nam.
2. Đàm phán song phương:
Tháng 01 năm 2002, ta gửi các Bản chào ban đầu về hàng hoá và dịch vụ tới các Thành viên có yêu cầu đàm phán song phương. Bản chào này thiếu sức thuyết phục vì khi đó ta chưa thừa nhận nguyên tắc phải dành BTA cho tất cả các thành viên WTO. Bản chào thứ hai và thứ ba sau đó, do vẫn giữ nguyên cách tiếp cận, cũng không thành công trong việc đưa đàm phán đi vào thực chất.
Tháng 4 năm 2004, ta đưa ra bản chào thứ tư (Bản chào 4) với những cam kết đột phá. Về thuế, ta đồng ý ràng buộc mức trần cho gần như toàn bộ biểu thuế. Về dịch vụ, ta tuân thủ hoàn toàn nguyên tắc ngang bằng với BTA và đưa ra một số cam kết mới so với BTA. Bản chào 4 đã tạo được sự quan tâm của các đối tác. Đàm phán ngay lập tức đi vào thực chất và có tiến triển rất tích cực. Trên cơ sở đó, ta quyết định không gửi bản chào chung nữa mà chuyển sang xây dựng các bản chào riêng để tiếp cận yêu cầu cụ thể của từng đối tác.
Công tác vận động đàm phán được đẩy mạnh trên tất cả các diễn đàn đa phương (ASEAN, APEC, ASEM v.v...) và trong các cuộc tiếp xúc song phương của lãnh đạo Đảng và Nhà nước. Tháng 10 năm 2004, nhân Hội nghị Thượng đỉnh ASEM tại Hà Nội, ta đã tạo được bước đột phá bằng việc kết thúc đàm phán song phương với EU. Sau đó, nhân chuyến thăm Mỹ La-tinh của Chủ tịch nước, ta kết thúc thêm với 3 nước là Bra-xin, Ac-hen-ti-na và Chi-lê. Cũng trong tháng 10 năm 2004, ta có phiên đàm phán đầu tiên và thực chất với Hoa Kỳ tại Washington.
Năm 2005 là năm bản lề của đàm phán song phương. Các cuộc đàm phán song phương phần lớn được chuyển về thủ đô để tăng tính hiệu quả. Nhờ chiến lược đúng đắn này, ta lần lượt kết thúc đàm phán với nhiều đối tác lớn như Hàn Quốc, Nhật Bản, Canađa, Trung Quốc, Thụy Sỹ, Nauy, Ấn Độ, Đài Loan. Tổng cộng đến cuối năm 2005, ta kết thúc được đàm phán song phương với 20 đối tác và đạt tiến bộ rất quan trọng trong đàm phán song phương với Hoa Kỳ. Sang đầu năm 2006, ta kết thúc đàm phán với Niu Dilân, ngay sau đó là Úc và các nước Mỹ La-tinh còn lại.
Ngày 13 tháng 5 năm 2006, tại phiên đàm phán thứ 13 tại Washington, ta đạt được thoả thuận song phương với đối tác cuối cùng là Hoa Kỳ.
Tổng cộng, chúng ta đã phải đàm phán với 28 Thành viên WTO. Số phiên đàm phán song phương lên tới hơn 200 cuộc. Các nước Bun-ga-ri và Ki-rơ-gi-xtan có yêu cầu đàm phán nhưng sau đó rút yêu cầu. Cộng hoà Séc và Cộng hoà Slô-va-kia ngừng đàm phán giữa chừng do gia nhập EU.
3. Đàm phán về nông nghiệp:
Đàm phán về nông nghiệp thuộc đàm phán đa phương nhưng do tính chất quan trọng của nó nên xin được tách ra để báo cáo riêng. Nhìn chung, đây là mảng đàm phán rất khó khăn vì quy định của WTO tương đối lỏng lẻo. Ta rất muốn tận dụng sự lỏng lẻo này để đạt kết quả có lợi cho ta nhưng nhiều thành viên của WTO lại là cường quốc xuất khẩu nông sản nên đưa ra đòi hỏi rất cao, nhiều khi ngược hẳn với quy định của WTO. Ta sẽ không thể gia nhập nếu không giải quyết được sự mất cân đối này, nhất là khi nông nghiệp cũng là lĩnh vực nhạy cảm đối với ta.
Đàm phán đa phương về nông nghiệp tập trung xem xét các chương trình hỗ trợ trong nước và trợ cấp xuất khẩu nông sản. Ta đã phải thống kê tất cả các chương trình trợ cấp xuất khẩu và hỗ trợ trong nước để trình ra Ban công tác. Trong 8 phiên đầu, đàm phán đa phương về nông nghiệp tiến triển hết sức chậm chạp bởi ta không chấp nhận bãi bỏ trợ cấp xuất khẩu nông sản trong khi tất cả các nước mới gia nhập, kể cả các nước chậm phát triển, đều cam kết xoá bỏ hình thức trợ cấp này ngay từ khi gia nhập. Tới Phiên 9 (tháng 12 năm 2004), với chủ trương tạo đột phá trong đàm phán, ta đồng ý cam kết bãi bỏ hoàn toàn trợ cấp xuất khẩu nông sản. Đàm phán đa phương về nông nghiệp coi như kết thúc về cơ bản bởi thời gian sau này chỉ là làm rõ và chi tiết hoá các chương trình hỗ trợ trong nước mà thôi.
4. Công tác xây dựng pháp luật phục vụ đàm phán:
Theo quy định của Hiệp định WTO, Ban công tác yêu cầu ta, như tất cả các nước xin gia nhập khác, phải đưa ra Chương trình xây dựng pháp luật để thực hiện các cam kết gia nhập WTO.
Chương trình xây dựng pháp luật của Việt Nam được trình ra Ban công tác lần đầu tiên vào tháng 6 năm 2000. Tại các phiên đàm phán đa phương tiếp theo, Chương trình này thường xuyên được cập nhật hai nội dung: (i) bổ sung các cam kết mới phù hợp với tiến trình đàm phán; và (ii) thông tin về tiến độ ban hành các văn bản pháp luật. Chương trình được xây dựng dựa trên các tiêu chí chủ yếu sau:
- Tính khả thi: tức là phải phù hợp với điều kiện lập pháp của Việt Nam và Chương trình xây dựng pháp luật dài hạn và hàng năm của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các chương trình, kế hoạch ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ.
- Tính đồng bộ: Chương trình được xây dựng trên cơ sở rà soát pháp luật phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế, được tiến hành từ năm 2000. Mục tiêu chính của Chương trình là thiết lập hành lang pháp lý đồng bộ cho hoạt động thương mại trong điều kiện hội nhập, không vì thực hiện các nghĩa vụ thành viên WTO mà bỏ qua tính đồng bộ của Chương trình.
- Tính tương đồng: lộ trình và nội dung của Chương trình phù hợp với lộ trình và nội dung đàm phán, hỗ trợ tối đa cho tiến trình đàm phán.
Tháng 3 năm 2004, đoàn Quốc hội Việt Nam do Chủ tịch Quốc hội dẫn đầu đã đến thăm trụ sở WTO tại Giơ-ne-vơ và cam kết tập trung xây dựng pháp luật để hỗ trợ kết thúc đàm phán. Đến cuối năm 2004, ta quyết định đẩy nhanh tiến độ xây dựng pháp luật để hoàn thành toàn bộ Chương trình trong năm 2005-2006. Ngày 14 tháng 6 năm 2005, Quốc hội ra Nghị quyết số 42/2005/QH11 về việc điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2005, trong đó ưu tiên đẩy nhanh tiến độ ban hành văn bản phục vụ tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và đàm phán gia nhập WTO. Nhờ có nỗ lực này, đến Phiên 12 (7/2006), 25 trong số 26 văn bản cam kết trong Chương trình đã được ban hành, chỉ còn lại Bộ luật Thi hành án dự kiến sẽ được Quốc hội thông qua tại kỳ họp cuối năm 2006.
Việc hoàn thành Chương trình xây dựng pháp luật đồ sộ là kết quả của sự chỉ đạo sát sao của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, sự ủng hộ tích cực và hoạt động khẩn trương của Quốc hội, các đại biểu Quốc hội và sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan Chính phủ với các cơ quan của Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Tất cả các thành viên của Ban công tác đều đánh giá cao công tác xây dựng pháp luật của ta và coi đây là một trong những yếu tố quyết định cho việc Việt Nam sớm gia nhập WTO.
Phần 2
GIẢI TRÌNH KẾT QUẢ ĐÀM PHÁN
Bộ văn kiện gia nhập WTO của Việt Nam, được Ban Công tác thông qua vào ngày 26 tháng 10 năm 2006 và Đại hội đồng WTO thông qua vào ngày 07 tháng 11 năm 2006, bao gồm các tài liệu sau:
Nghị định thư về việc gia nhập WTO của Việt Nam;
Quyết định của Đại hội đồng về việc gia nhập WTO của Việt Nam;
Báo cáo của Ban công tác về việc gia nhập của Việt Nam;
Biểu cam kết về thương mại hàng hóa (bao gồm cam kết về thuế nhập khẩu, hạn ngạch thuế quan và trợ cấp nông nghiệp);
Biểu cam kết cụ thể về thương mại dịch vụ.
Các văn kiện này thể hiện toàn bộ các cam kết WTO của Việt Nam, như được trình bày dưới đây.
I. CÁC CAM KẾT ĐA PHƯƠNG
Cam kết đa phương là cam kết chung, mang tính nguyên tắc, về việc thực hiện các quy định của WTO. Theo hướng đó, cam kết đa phương lẽ ra chỉ là các cam kết về việc tuân thủ các hiệp định của WTO, hoặc các cam kết về sửa đổi quy định, chính sách cho phù hợp với quy định của WTO. Tuy nhiên, do đàm phán gia nhập WTO là đàm phán một chiều, các nước mới gia nhập WTO thường phải chấp nhận thêm một số cam kết đặc thù, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh đàm phán, đối tác đàm phán hoặc điều kiện cụ thể của từng nước xin gia nhập.
Tài liệu thể hiện các cam kết đa phương là Báo cáo gia nhập. Báo cáo này do Ban Thư ký tổng hợp, dựa trên các bản trả lời câu hỏi, các chương trình hành động và các bản thông báo về chế độ, chính sách mà nước xin gia nhập gửi cho Ban công tác. Báo cáo bao gồm các đoạn văn có đánh số, sắp xếp theo từng đề mục theo mẫu chung của WTO. Dưới đây, xin giải trình từng mục cụ thể trong Báo cáo gia nhập của ta.
1. Giới thiệu chung và tuyên bố ban đầu:
Mục này thể hiện một số nguyên tắc chung, không có cam kết. Ở phần này, ta khẳng định quyết tâm hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam nhưng cũng yêu cầu các nước linh hoạt trong quá trình đàm phán bởi ta là nước đang phát triển ở trình độ thấp. Ở phần này, ta không nêu Việt Nam là nền kinh tế chuyển đổi bởi một số Hiệp định của WTO quy định thời gian quá độ dành cho các nền kinh tế chuyển đổi ngắn hơn thời gian quá độ dành cho các nước đang phát triển.
2. Chính sách tài chính - tiền tệ, ngoại hối và thanh toán:
Chính sách ngoại hối và các biện pháp liên quan đến thanh toán quốc tế là nội dung quan trọng của đàm phán gia nhập. Lý do là một nước có thể dùng biện pháp hạn chế ngoại hối hoặc hạn chế thanh toán quốc tế để làm giảm, thậm chí là vô hiệu hóa các cam kết về mở cửa thị trường. Do WTO không có nhiều quy định liên quan trực tiếp đến nội dung này nên các Thành viên thường lấy các quy định của IMF làm chuẩn mực.
Việt Nam, như tất cả các nước mới gia nhập khác, cam kết tuân thủ các quy định có liên quan của WTO và IMF về chính sách tài chính, tiền tệ, ngoại hối và thanh toán; không áp dụng các biện pháp hạn chế giao dịch vãng lai trái với quy định của WTO và IMF.
3. Chính sách đầu tư:
Do WTO chỉ có các quy định về chính sách đầu tư liên quan đến thương mại, không điều chỉnh đầu tư nói chung nên trong mục này, ta chỉ làm rõ chế độ, chính sách, không đưa ra cam kết.
4. Các doanh nghiệp do nhà nước sở hữu hoặc kiểm soát, hoặc được hưởng đặc quyền hoặc độc quyền:
WTO không hạn chế hoạt động của doanh nghiệp nhà nước (DNNN), chỉ yêu cầu DNNN phải hoạt động theo tiêu chí thương mại để bảo đảm môi trường kinh doanh bình đẳng. Tuy nhiên, vấn đề DNNN được nhiều thành viên quan tâm bởi xuất phát điểm của ta là nền kinh tế chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường, Nhà nước vẫn còn tham gia rất sâu vào các hoạt động kinh tế. Tới nay, tuy đã tiến hành sắp xếp lại nhưng số lượng doanh nghiệp nhà nước vẫn còn khá nhiều, trong nhiều lĩnh vực chiếm thị phần chi phối. Vốn của doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số vốn của các doanh nghiệp, mức tín dụng dành cho doanh nghiệp nhà nước cao. Nhiều thành viên e ngại ta sẽ thông qua doanh nghiệp nhà nước để can thiệp vào thị trường, gây lệch l
Tờ trình số 150/TTR-CP về kết quả đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới và phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại thế giới do Chính phủ ban hành
- Văn bản pháp luật |
Văn bản WTO
Các bài viết liên quan đến Tờ trình số 150/TTR-CP về kết quả đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới và phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại thế giới do Chính phủ ban hành, Văn bản WTO
Tin mới nhất Văn bản WTO
Tin xem nhiều nhất Văn bản WTO
Tờ trình số 150/TTR-CP về kết quả đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới và phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức Thương mại thế giới do Chính phủ ban hành Tại Văn bản WTO của trang Văn Bản Mua Bán Nhanh, 03/06/2023 21:28:40
Từ khóa tìm kiếm liên quan Nguyễn Tấn Dũng
Tin nổi bật Văn bản WTO